Tôn Đức Thắng được biết đến như một nhân vật chính trị theo chủ nghĩa dân tộc và Cộng sản hàng đầu của Việt Nam. Ông là chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ năm 1955 đến 1960 và phó chủ tịch của Hồ Chí Minh từ năm 1960 đến 1969. Ông qua đời ở tuổi 91, trở thành nguyên thủ quốc gia lớn tuổi nhất với chức danh “chủ tịch” (sau đó bị Hastings Banda vượt qua).
Đồng chí Tôn Đức Thắng là ai?
Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng từng là chủ tịch của Liên Việt trong cuộc nổi dậy chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1954. Tuy nhiên, tổ chức này đã bị giải thể sau Công ước Genève năm 1954 trao cho Việt Minh quyền kiểm soát duy nhất đối với miền Bắc Việt Nam. Sau đó, ông tiếp quản một tổ chức khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một nhóm dân tộc chủ nghĩa thân Cộng sản.
Tôn Đức Thắng đã lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc trong cuộc chinh phục của nó để thu hút những người ủng hộ từ miền Nam Việt Nam . Kết quả là ông đã nhận được Giải thưởng Hòa bình của Stalin vào năm 1955.
Thông tin nhanh về cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
- Tên đầy đủ: Tôn Đức Thắng
- Bí danh: Thoại Sơn
- Ngày sinh: 20/8/1888
- Ngày mất: 30/3/1980
- Quê quán: xã Mỹ Hoà Hưng, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
- Ngày vào đảng: 1930
Cuộc đời và các mốc về sự nghiệp của cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
Tôn Đức Thắng sinh năm 1888 và từ năm 1906 đến 1912, ông lên Sài Gòn học tại Trường Kĩ nghệ Viễn Đông và làm công nhân tại Nhà máy Ba Son. Từ năm 1912 đến 1917, ông tổ chức và lãnh đạo cuộc bãi công của học sinh Trường Bách nghệ và công nhân Nhà máy sửa chữa tàu thuỷ Ba Son. Sau đó, ông sang Pháp làm thợ máy cho một đơn vị hải quân Pháp.
Năm 1919, ông tham gia cuộc binh biến của chiến sĩ Pháp ở Hắc Hải và kéo cờ đỏ trên chiến hạm Phờrăngxơ để ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga. Năm 1920, ông trở về nước và lập Công hội bí mật ở Sài Gòn – tổ chức Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.
Ông tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son vào tháng 8/1925. Cuộc đấu tranh này đã đánh dấu sự trưởng thành của phong trào công nhân từ “Tự phát” sang “Tự giác”. Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và là Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam kỳ và trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn.
Từ năm 1928, ông bị địch bắt và bị đưa ra Côn Đảo với án tù 20 năm khổ sai. Tại đây, ông lập chi bộ nhà tù lãnh đạo anh em trong tù đấu tranh và được Xứ uỷ Nam Kỳ thừa nhận là chi bộ đặc biệt và là đảng viên từ đó. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Đảo.
Từ năm 1945, ông trở về Nam Bộ và làm Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ phụ trách về vấn đề lương thực và vũ khí. Từ năm 1946, ông trúng cử là đại biểu Quốc hội và tham gia phái đoàn Quốc hội sang Pháp.
Từ tháng 2/1951, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt. Từ năm 1946 đến 1955, ông giữ các cương vị Phó ban Thường trực Quốc hội, Quyền Trưởng ban (1948 – 1955) rồi Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955-1960), tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này.
Tại Đại hội Đảng lần thứ III vào ngày 9/1960, ông được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Vào ngày 23/9/1969, ông được bầu giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 12/1976 đến 1980, ông là Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.
Tôn Đức Thắng – Những dấu ấn và di sản
Cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, người đã từng giữ vị trí chủ tịch lâu đời nhất trên thế giới. Ông qua đời vào ngày 30/03/1980 tại Hà Nội, hưởng thọ 91 tuổi do trụy tim và suy hô hấp. Ông đã được chôn cất tại Nghĩa trang Mai Dịch trong phần dành cho phần mộ của các nhà lãnh đạo chính phủ và các nhà cách mạng nổi tiếng.
Mặc dù Tôn Đức Thắng là chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất. Ông đã không đạt được sự tôn kính như Hồ Chí Minh đã nhận được từ người dân Việt Nam. Tuy nhiên, ông đã để lại những dấu ấn và di sản quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Trong thời điểm quan trọng khi Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam thống nhất, ông đã đảm nhiệm vai trò người lãnh đạo đất nước. Dưới sự cai trị của ông, Việt Nam đã sống sót qua thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, đó cũng là thời điểm đất nước có dấu hiệu kiệt quệ sau 30 năm chiến tranh. Nền kinh tế sụp đổ sau nỗ lực tập thể hóa nền kinh tế miền Nam thất bại, một số đảng viên chủ chốt như Bùi Tín và Hoàng Văn Hoan đào ngũ.
Sau khi ông qua đời, nhiều đại lộ và con đường ở các đô thị lớn đã được đặt theo tên của ông để vinh danh những cống hiến của ông. Đại học Tôn Đức Thắng, một trường đại học hàng đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh, cũng được đặt theo tên ông để kỷ niệm về một trong những nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam.
Cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã để lại một di sản vô giá trong lịch sử Việt Nam. Ông là người lãnh đạo quan trọng trong thời kỳ thống nhất đất nước sau chiến tranh. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã giúp Việt Nam vượt qua thời kỳ khó khăn và phát triển. Cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng sẽ mãi được tôn vinh và ghi dấu trong trái tim của người dân Việt Nam.
Tieusunguoinoitieng.vn xin gửi lời cảm ơn đến tất cả độc giả đã theo dõi bài viết của chúng tôi. Chúng tôi luôn mong muốn mang đến cho quý vị những nội dung chất lượng và hữu ích. Nếu quý vị có bất kỳ ý kiến hay góp ý nào để giúp chúng tôi cải thiện nội dung tốt hơn, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi. Chân thành cảm ơn sự ủng hộ và đóng góp của quý vị.